Dulichmien.net– Bánh mướt là đặc sản, đồng thời cũng một món ăn dân dã đã gắn bó với người dân Diễn Châu – xứ Nghệ từ rất lâu rồi.Bánh mướt thoạt nhìn thì trông giống bánh cuốn của miền Bắc, bánh ướt ở miền Nam, nhưng đến khi ăn thử lại thấy hương vị riêng biệt, không thể lẫn vào đâu được.
Diễn Châu có rất nhiều làng làm bánh nổi tiếng, bánh mướt ở đây nổi tiếng cũng như bánh cuốn Thanh Trì (Hà Nội). Khác với những món quà quê khác, thứ bánh dân dã này không thể mang đi xa hay để được lâu bởi nó được làm bằng bột gạo xay. Người dân làng Quy Chính truyền nhau nghề làm bánh như truyền nhau kế sinh nhai. Làm bánh cũng như là một niềm vui lao động.
Bánh mướt thường dài như ngón tay trỏ của người lớn, cuộn tròn, mềm, mịn, trắng trong. Chỉ cần chén nước mắm vắt chanh, đường vừa đủ, ớt cắt lát mỏng thế là có thể ăn đến no, bởi nguyên liệu của bánh không phải cái gì khác ngoài gạo tẻ. Người xứ Nghệ cũng thường ăn bánh mướt thay cơm.
Cuộc sống đã bao nhiêu thay đổi nhưng bánh mướt vẫn thường trực trong những buổi sáng mờ sương, những buổi trưa đãi khách, những bữa tiệc đoàn tụ gia đình và cả ngày giỗ, ngày cưới… Dẫu rằng chiếc bánh mướt theo thời gian đã được người ta cách điệu đi đôi phần như dùng máy để xay bột, dùng thịt heo, mộc nhĩ để làm nhân … bánh mướt vẫn còn giữ được hồn quê dân dã đến kỳ lạ!
Nguyên liệu chính làm bánh mướt là bột gạo được làm từ gạo Vệ (một loại gạo được trồng ở Quỳnh Lưu) hoặc gạo Khang dân có độ nở cao, không quá khô cũng không qua dẻo, gạo tẻ pha chung với một ít bột lọc theo một tỷ lệ nhất định để khi tráng bánh mỏng nhưng không bị rách, vừa đủ độ mềm và dai mịn.
Để có bánh vào buổi sáng sớm, gạo phải được ngâm từ 9 giờ tối đến 3 giờ sáng hôm sau, rồi cho lắng tiếp khoảng hai giờ nữa mới vo sạch và bóp đều trước khi xay. Trước kia bột bánh được xay bằng cối đá nhưng giờ đây với công nghệ hiện đại, bột được xay bằng máy giúp giai đoạn chế biến đỡ vất vả hơn. Bột gạo xay xong pha thêm nước lạnh vào khuấy đều sao cho bột không quá loãng cũng không quá đặc.
Bột sau khi pha được tráng thành một lớp mỏng trên lớp màng vải mỏng được căng trên một nồi hơi. Bếp củi tráng bánh bao giờ lửa cũng phải cháy lớn và đều để nước trong nồi luôn sôi, có như vậy sức nóng mới xuyên thấu tấm vải căng miệng nồi.
Người làm bánh luôn múc một lượng nước bột vừa đủ để bánh mỏng và ngon. Quá trình hấp bột sẽ tạo thành một lớp màng mỏng chính là bánh mướt, thời gian hấp từ 1 đến 2 phút tùy độ dày của bánh. Đối với những người làm bánh mướt gia truyền lâu năm, sau khi đậy nắp nồi lại, họ không cần nhìn đồng hồ nhưng vẫn canh đúng thời gian mở nắp ra khi bột gạo vừa chín trong khi tay vẫn thoăn thoắt tráng và cuốn bánh. Cuốn xong, bánh được phết một lớp mỡ hành và đặt ngay ngắn thành từng hàng trong một thúng lót lá chuối tươi xanh.
Người dân xứ Nghệ thường ăn bánh với đủ thứ nước dùng nào bò hầm, xáo vịt, xáo gà, rồi lòng heo, giò lụa, thịt chó… Tất nhiên không thể thiếu được rau rợ với dưa, giá, xà lách, rau thơm…
Ở xứ Nghệ có những làng chuyên làm bánh mướt bán quanh năm. Kinh nghiệm làm bánh được chắt chiu và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Bánh mướt là món ăn gắn bó với người dân xứ Nghệ và là một phần không thể thiếu trong ẩm thực thường ngày của người dân nơi đây.